Khái niệm về văn hóa công vụ
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa được hiểu: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
Theo tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO), văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng “Văn hóa là một phức hệ – tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia và xã hội. Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, hệ thống giá trị, giá trị truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo”; theo nghĩa hẹp “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”2.
Theo một số nghiên cứu về văn hóa công vụ (VHCV) thì VHCV được đặc trưng bởi tính định hướng giá trị và có nhiều cấp độ, cụ thể, có 3 lớp văn hóa:
Một là, lớp ngoài cùng – các yếu tố thực thể hữu hình, bao gồm: công sở, nghi thức, lễ tân, những hành vi giao tiếp, ứng xử của cán bộ, công chức.
Hai là, lớp giữa – các yếu tố về giá trị thể hiện các chuẩn mực: các quy định, nguyên tắc, chuẩn mực, qua thời gian áp dụng dần trở thành thông lệ, thành quy tắc ứng xử chung mà mọi thành viên trong tổ chức đều tuân thủ và những nét văn hóa truyền thống được thể hiện trong hoạt động công vụ.
Ba là, lớp trong cùng – các giá trị cốt lõi, ngầm định. Đó là lý tưởng, niềm tin, nhận thức, suy nghĩ, cảm xúc là nền tảng cho các giá trị và hành động.
Công vụ là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước – pháp lý, do các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đảm nhiệm theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Từ một số quan niệm về “văn hóa” và “công vụ” nêu trên có thể hiểu VHCV “là hệ thống biểu tượng, chuẩn mực, giá trị, niềm tin hình thành trong nhận thức, tạo nên tầm nhìn, tác động đến hành vi và lề lối làm việc, cách sống của người thực thi công vụ, của môi trường tổ chức, có khả năng lưu truyền và ảnh hưởng tới chất lượng công vụ”3. Do vậy, VHCV có những đặc thù riêng so với các loại hình văn hóa khác.
Thực trạng việc thực thi văn hóa công vụ
Báo cáo đánh giá tổng kết thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 – 2010, đã chỉ rõ: “Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm thiếu và yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu Nhân dân vẫn còn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, công chức”4.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã thẳng thắn đánh giá: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”5.
Để xây dựng một nền công vụ trong sạch, hiệu quả cần đề cao tính chuyên nghiệp với các giá trị cơ bản, như: tính trung thực và khách quan; tính minh bạch và tính chuyên nghiệp.
Thứ nhất, nền công vụ phải thể hiện tính trung thực và khách quan, đây là một trong những giá trị cốt lõi của VHCV. Tính trung thực và khách quan thể hiện trong cách thực thi công vụ (TTCV) và trong kết quả thực hiện công vụ. Để đạt được tính trung thực và khách quan, các quy định cần cụ thể, dễ thực hiện, tạo điều kiện cho người TTCV hoàn thành tốt được nhiệm vụ.
Thứ hai, tính minh bạch của công vụ đòi hỏi mọi hoạt động phải rõ ràng, các quy định, quy trình phải cụ thể công khai để người TTCV cũng như người dân có thể thực hiện và kiểm tra một cách dễ dàng. Minh bạch là một trong những giá trị cơ bản, cốt lõi của VHCV. Giá trị minh bạch luôn đồng hành cùng trách nhiệm “giải trình”, nghĩa là thực hiện công vụ phải thực hiện báo cáo, giải trình quá trình TTCV, kết quả đạt được và tính hiệu quả của quá trình TTCV. Tính minh bạch thể hiện qua việc công khai về tài sản, thông tin của những người TTCV. Đồng thời, tính minh bạch cũng là một biện pháp nâng cao trình độ năng lực làm việc của người TTCV.
Thứ ba, tính chuyên nghiệp của nền hành chính hiện đại hàm chứa tính phục vụ. Nền công vụ hiện đại là hướng vào phục vụ người dân, lấy người dân làm mục tiêu chính. Người TTCV phải luôn có thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp chuẩn mực; cách giải quyết công việc hiệu quả, không cửa quyền, không hách dịch gây khó khăn, phiền hà cho Nhân dân.
Một số giải pháp xây dựng nền văn hóa công vụ
Trên cơ sở những giá trị cơ bản của nền hành chính, như: tính trung thực, khách quan; tính minh bạch và tính chuyên nghiệp, từ đó, cần xây dựng cụ thể một số giải pháp cho nền VHCV, như sau:
Một là, tăng cường giáo dục ý thức VHCV. Ý thức tự giác của công chức, viên chức TTCV là một trong những yếu tố quan trọng để tăng cường tính tự giác của người TTCV. Ý thức này được hình thành thông qua các biện pháp giáo dục, tuyên truyền.
Hai là, hoàn thiện hành lang pháp lý về VHCV. Việc quy định các chuẩn mực về văn hóa, đạo đức cho cán bộ, công chức, viên chức cần được thể chế hóa trong các văn bản mang tính pháp lý. Các giá trị đạo đức được Đảng đề ra hiện nay cũng cần được cụ thể hóa thành các quy định về pháp lý để đội ngũ cán bộ, đảng viên thực hiện trong toàn hệ thống chính trị.
Ba là, xây dựng chiếc lược tổng thể cho từng ngành về các giá trị VHCV, trong đó Đề án Văn hóa công sở là căn cứ pháp lý quan trọng để triển khai thực hiện. Trên cơ sở đó, Đề án Văn hóa công sở ở từng ngành, từng địa phương cần căn cứ vào các giá trị chung, căn cứ vào điều kiện, yêu cầu đặc thù của mình để xây dựng bộ giá trị VHCV phù hợp với từng ngành hoặc địa phương.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh.Toàn tập. Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 458.
2. Tuyên bố về những chính sách văn hóa. UNESCO (năm 1982).
3. Huỳnh Văn Thới (chủ biên). Văn hóa công vụ ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn. H. NXB Lý luận chính trị, 2016, tr. 39-40.
4. Báo cáo đánh giá tổng kết thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 – 2010.
5. Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách xây dựng Đảng hiện nay.
TS. Nguyễn Thị Kim Chung
Học viện Hành chính Quốc gia